Tôi đến từ Đà Nẵng, Việt Nam. Từ khi còn rất nhỏ, tôi đã sống trong một căn nhà cấp 4 chỉ vỏn vẹn 12 mét vuông cùng mẹ và anh hai, sau khi ba tôi qua đời. Căn nhà nhỏ nằm lọt thỏm giữa khu phố lao động cấp 4, ẩm thấp, tối tăm, nơi những con gián, chuột và mạng nhện là một phần quen thuộc của cuộc sống. Mỗi đêm nằm ngủ, tôi vẫn hay nhìn lên trần nhà rệu rã và thầm lo sợ – rằng một ngày nào đó, cả mái nhà sẽ sập xuống và cuốn theo tất cả những giấc mơ bé nhỏ tôi hằng ôm ấp. Thế nhưng, dù sống trong bóng tối, tôi chưa từng từ bỏ hy vọng. Ước mơ đi du học Hàn Quốc – có lẽ là điều duy nhất trong đời tôi chưa từng nhạt phai. Và rồi bằng một cách kỳ diệu nào đó, cuộc đời vẫn lặng lẽ ôm lấy tôi bằng những bàn tay ấm áp vô hình. Hôm nay, tôi đang ngồi đây, giữa đất trời Hàn Quốc – điều mà ngày xưa, tôi từng nghĩ chỉ có trong mơ. Tôi yêu tất cả nơi đây. Từ ngôn ngữ dịu dàng, hàng cây thay lá theo mùa, đến những con hẻm nhỏ yên bình – tất cả đều mang đến cho tôi một thứ cảm giác khó diễn tả bằng lời: cảm giác được sống một cách trọn vẹn.
Nhưng có một mùa mà tôi sẽ mãi mãi không bao giờ quên. Mùa đông năm 2024 – mùa lạnh đầu tiên tôi trải qua ở xứ sở này.
Hôm đó là một ngày cuối tuần. Hôm đó tôi nhận việc làm thay chỉ một ngày, tôi dậy từ 6 giờ sáng để đi làm thêm ở một quán phở xa lạ. Gió lạnh cắt da, cái lạnh thấu vào tận xương sống – điều mà cả đời tôi ở miền Trung Việt Nam chưa từng biết đến. Khi ấy, tôi chỉ có vài chiếc áo mỏng manh mang từ quê nhà. Với tôi lúc đó một chiếc áo dày, ấm áp là một điều quá xa xỉ. Tôi chạy vội đến ga tàu, mong được ấm lên trong chuyến tàu sớm, thì bất ngờ vấp ngã. Cú ngã làm kính mắt tôi vỡ một bên, tay chân trầy xước, mặt sưng tím. Tôi đứng dậy, tay run lên vì lạnh và đau, nhưng thứ khiến tôi bật khóc trong lòng lại không phải vết thương – mà là chiếc kính. Nó là một trong những thứ tài sản mà tôi mang sang đây.
Khi đến quán với bộ dạng đó tuy tôi vẫn luôn cười thật tươi và bảo với chủ rằng tôi vẫn ổn sẽ làm tốt và nốt hôm nay sẽ thay kính, nhưng ông chủ tôi là một người rất tốt, chủ đã đóng quán 30 phút và dẫn tôi sang đo mắt làm kính, chủ bảo sẽ tặng chứ không trừ lương. Tôi chỉ biết ngơ ra nước mắt thì đã lên đến tận khoé chỉ đợi 1 cái cụp mí là sẽ tuôn ra. Cho tới bây giờ tôi vẫn rất biết ơn ông chủ đó.
Chiều hôm đó, sau khi tan làm lúc 5 giờ, tôi đến xưởng đóng gói gà để tiếp tục ca tối. Chân tôi đau buốt đến mức không thể đứng yên lâu, nhưng tôi tự nhủ: "Mày đã từng vượt qua gián chuột và mái nhà sắp đổ, thì cơn đau này có là gì? Cố lên… đừng ngã."
Đến nửa đêm, sau 5 giờ làm không ngơi nghỉ, tôi vừa định về thì chủ xưởng hỏi:
"Em có muốn làm thêm không? Xưởng cá đang cần người từ 2 giờ tới 7 giờ sáng."
Tôi biết mình không nên tiếp tục. Nhưng lúc ấy, tôi chỉ làm được vào cuối tuần, nên tôi nuốt nước mắt, gật đầu.
Tôi ghé cửa hàng tiện lợi, mua phần cơm rẻ nhất – 4.900 won. Đó là bữa ăn tôi nhớ mãi trong đời. Tôi ngồi lặng lẽ giữa tuyết rơi, chân tê cứng, tay gần như đông lạnh. Mẹ tôi gọi từ quê sang, nhưng tôi không dám bắt máy. Tôi sợ – nếu nghe giọng mẹ, nước mắt tôi sẽ không dừng lại được nữa.
Giữa lúc cơn cô đơn và tủi hờn dâng lên nghẹn cổ họng, một ngưòi bà tầm khoảng bà ngoại của tôi. Không biết bà đã nhìn tôi bao lâu nhưng có vẻ và nhận ra được cơn đau ở mặt, da và cả trong lòng của một đứa du học sinh như tôi. Bà lặng lẽ đặt vào tay tôi một túi đồ: một hộp kimchi nhỏ, vài lon cá hộp, và một gói rong biển.
Bà không hỏi tên, không cần biết tôi từ đâu đến, chỉ nhìn tôi, cười rồi nói
"괜찮아, 누구에게나 인생에서 가장 추운 날이 있어. 하지만 걱정하지 마, 봄은 꼭 올 거야."
"Không sao đâu con, ai cũng có ngày lạnh nhất trong đời. Nhưng đừng lo – mùa xuân sẽ đến."
Tôi òa khóc như một đứa trẻ lên ba. Không phải vì đau, mà vì lòng mình lần đầu tiên trong mùa đông ấy thấy ấm trở lại.
Khi đến xưởng cá lúc 2 giờ sáng, các cô trong xưởng thấy tôi run rẩy liền mang cho tôi một chiếc áo phao màu hồng.
“Mặc vào đi, lạnh thế này làm sao chịu nổi. Con gái cô còn nhiều lắm mà nó chẳng mang lát tan làm về nhà cô, cô nấu canh kimchi ăn rồi lấy áo mà mang nha con"
Chiếc áo phao ấy đến giờ tôi vẫn giữ. Không chỉ vì nó ấm, mà vì nó mang hơi thở của tình người, của sự bao dung nơi đất khách quê người.
Giờ đây, tôi đã ổn định hơn. Tôi đã đỗ TOPIK cấp 5, vào đại học, tiếp tục theo đuổi ước mơ của mình. Nhưng tôi sẽ không bao giờ quên mùa đông đầu tiên ở Hàn Quốc – mùa của nước mắt, nhưng cũng là mùa của những trái tim ấm. Tôi vẫn chưa biết tên của người bà trong đêm tuyết ấy, không biết tên của cô công nhân đã đưa tôi chiếc áo phao, hay cả ông chủ đã cho tôi tiền làm kính. Nhưng nhờ họ, tôi hiểu rằng:
“Ở nơi lạnh nhất, đôi khi lại chính là nơi ấm nhất – nếu ta gặp được những trái tim luôn mang hơi ấm.”